(Please scroll down for English version of all information)
ĐIỆN BIÊN PHỦ
MỘT PHIM CỦA PIERRE SCHOENDOERFFER
19:00 — 22.04.2025
Rạp Ngọc Khánh — 523 Kim Mã, Hà Nội
Vào cửa tự do
Đăng ký trước tại:
https://tinyurl.com/dbp-nttd
Trang sự kiện Facebook:
https://www.facebook.com/events/1387234892470904/
Một phần của NHƯ TRĂNG TRONG ĐÊM 2025 (
www.facebook.com/events/641664061907797)
>>>>>>>>>>>>>>>>>
Bộ phim mang tới ‘cái nhìn từ phía Pháp’ về trận Điện Biên Phủ, thực hiện sau gần 40 năm sự kiện lịch sử đánh dấu kết thúc nền thuộc địa của Pháp tại Đông Dương. Trong dòng hồi ức tuần tự cùng lời dẫn của chính đạo diễn Pierre Schoendoerffer, di chuyển giữa Hà Nội và sa trường, cùng âm nhạc day dứt của Georges Delerue, hiện lên những con người, những số phận trong hoàn cảnh tuyệt cùng của sống và chết. Với người đạo diễn đã từng có mặt trực tiếp tại trận địa ấy, bộ phim là một công vụ phải làm. Một thái độ riêng cho câu hỏi về điện ảnh chiến tranh.
Bộ phim là tác phẩm hợp tác sản xuất Pháp và Việt Nam vào năm 1992, với qui mô chưa từng xảy ra và vẫn là duy nhất cho tới thời điểm này giữa hai quốc gia. Tác phẩm được thực hiện với sự tham gia của quân đội Việt Nam và quân đội Pháp cùng nhân lực, vật chất cũng như trên nhiều khía cạnh, với sự dự phần đông đảo của những người làm điện ảnh Việt Nam ở thời điểm đó. Phim có một thế đứng biệt lập với hai bộ phim hợp tác Pháp-Việt khác được sản xuất cùng năm là Đông Dương của Régis Wargnier, và Người Tình của Jean-Jacques Annaud, những tiếp cận khác về cùng một thời kỳ lịch sử, có bối cảnh chính nằm ở miền Nam Việt Nam.
*
Cần thừa nhận rằng không thể có khoảng cách như mong muốn để viết về phim Điện Biên Phủ, đấy là bước đầu tiên. Chỉ như vậy, mới tìm được một tư thế trước người đã khuất, một điều không dễ dàng. Nhìn thẳng, không khoan nhượng, để hiểu sâu sắc rằng điện ảnh, chính trong thứ — nếu như có một sự phân chia — được gọi là thể loại ‘điện ảnh chiến tranh’, càng lớn lao bao nhiêu trong tất cả phương diện của một ngành kỹ nghệ, càng thất bại bấy nhiêu trong việc nói lên sự tàn bạo của số mệnh con người, đúng hơn, của từng số mệnh, của từng phẩm hạnh, của từng con người đã chết, từng người một, không phân biệt một ai. Giới hạn của điện ảnh là ở đây. Nhưng chính vì thế, điều này trở thành đúng.
Điện ảnh chiến tranh là điện ảnh của cái chết. ‘Ta biết gì về cái chết?’, một lính Lê dương trong phim Điện Biên Phủ trước khi quay lại sa trường đã hỏi như vậy. Đây cũng là khoảnh khắc điện ảnh thất bại. Và điện ảnh thất bại nhiều lần trong phim, trong năng lực của nó. 'Em đã không nhìn thấy gì hết ở Hiroshima. Không gì hết.', đây là lời nhân vật nam chính, trong Hiroshima Mon Amour (1959) của Alain Resnais, người đã mất gia đình sau vụ ném bom nguyên tử vào Thế chiến 2 tại Nhật Bản, nhắc lại nhiều lần với người tình Pháp quốc khi cô kể lại những kí ức cá nhân về thành phố qua bảo tàng, qua bệnh viện. Nếu việc sống tiếp sau nỗi đau - tức còn khả năng khôi phục hình ảnh nỗi đau là sự phủ định nỗi đau?...Điện Biên Phủ-phim. Càng đi vào khói bom, vào sương mù, vào cảnh quan thiêu rụi, vào mưa, vào đất, vào thịt, vào máu. Tất cả khổ ải sa trường. Nhưng có thể thật sự chạm tới đâu? Điện ảnh có thể trình diễn một địa ngục, nhưng không thể nào là địa ngục. Có thể dàn dựng cái chết, nhưng vĩnh viễn, không thể nào là cái chết. Và nhà làm phim biết điều đó. Ông đã sống nó.
Là một người lính, trưởng thành từ quân đội Pháp tại Đông Dương, trực tiếp có mặt ở trận địa, Pierre Schoendoerffer làm Điện Biên Phủ như muốn trả lại phẩm hạnh cho đồng đội của mình, trong một ý thức rõ ràng về tình huống, về cuộc chiến phi nghĩa mà họ ở trong. Phẩm hạnh của những người thất trận. Số phận của họ, nhỏ bé bao nhiêu trong một vận mệnh lớn thì càng giằng xé bấy nhiêu. Điện Biên Phủ là ác mộng, Hà Nội những ngày cuối thuộc địa dưới mắt nhà làm phim là một ác mộng khác. Nỗi kinh hoàng, sự giận dữ, sự tủi hổ, nỗi ăn năn, sự đối diện khó khăn. Làm sao để tìm được một cấu trúc cho Điện Biên Phủ từ phía người Pháp? Cấu trúc của một vết thương lớn. Một mặt, như các sử gia, theo một cách xác đáng và tiết độ để kể, cũng như để cố gắng hiểu những gì đã diễn ra, Pierre Schoendoerffer chọn cấu trúc biên niên, nhưng trên hết, cấu trúc Điện Biên Phủ-phim là cấu trúc một concerto. Thời tính của trận chiến-điện ảnh là thời tính âm nhạc, là tiếng vĩ cầm lúc đơn độc lúc ứng đối với cả dàn giao hưởng. Vĩ cầm là vận động lặp của những vết cứa ngàn dây. Concerto de l’Adieu. Vĩnh biệt vì không thể nào vĩnh biệt. Làm phim vì không thể không làm. Đấy là quá khứ phải mang và phải trả. Một khúc cầu hồn.
Phải nhắc tới những phút cuối phim, ngắn ngủi nhưng có một cường độ khủng khiếp, thể hiện tư thế của Pierre Schoendoerffer trước những người lính bên kia chiến tuyến. Sau ngày 7 tháng 5 năm 1954, sau những ngày liên tiếp trong mưa giữa đất bùn, một cú máy di chuyển đưa lên cao, không khí trở nên quang đãng, trong một sự im lặng kì lạ, nhìn thấy một toàn cảnh với lớp lớp đồi xanh, những người lính Việt Minh xuất hiện, màu áo xanh với màu đồi như lẫn vào nhau, từ từ, hàng nghìn người phủ kín quang cảnh, tràn xuống, tiến lên, vừa chạy vừa ôm súng, những người nhỏ bé với trang cụ thô sơ, đất và người là một, cùng nhịp trong chuyển động, một cảnh tượng hoàn toàn kì vĩ. Kết cục này là không thể khác, vận mệnh này là như vậy, đây là đất nước của họ. Phim trả lời.
Điện Biên Phủ. Người ta nghĩ về sự kiện, như thể hiển nhiên vì đó là một hiện diện lịch sử, trong ký ức tập thể. Một bộ phim như Điện Biên Phủ của Pierre Schoendoerffer, với vị trí riêng biệt của ông, mang tới cho ta một cái nhìn, nhưng cũng như âm thầm vang lên trong bóng tối 'Em đã không nhìn thấy gì hết. Không gì hết'. Nếu như con người vẫn thường mắc kẹt vì thách thức từ sự chọn điểm nhìn giữa những lớp trùng điệp lịch sử, chênh vênh giữa các giới hạn của mình, giằng co bởi những vết thương, vậy phải nhìn bằng ánh nhìn nào? Ở tư thế nào? Dù bằng tất cả sức mạnh nó có thể có, điện ảnh vẫn là sự khôi phục vô vọng và bất khả tới nỗi đau quá khứ. Với Pierre Schoendoerffer, nó có thể còn là lựa chọn vì tương lai theo một khía cạnh khác như trong lời dẫn kết phim, do chính ông đọc. Điện Biên Phủ-phim 1992, theo cách ông vẫn nói, trở thành “một phiêu du con người” (une aventure humaine) đã xuyên dài trong thời gian.
— Trương Quế Chi
>>>>>>>>>>>>>>>>>
CHƯƠNG TRÌNH
19:00 — Đón khách
19:30 — Chiếu phim
* Bản phim phục chế và số hoá của Studio Canal, được Viện Pháp tại Việt Nam cung cấp
* Phim chiếu kèm phụ đề tiếng Việt & tiếng Anh
* Hotline: 0363909790 / 0987159622
>>>>>>>>>>>>>>>>>
ĐIỆN BIÊN PHỦ
Phim truyện, 1992, 131’
Kịch bản và đạo diễn: Pierre Schoendoerffer
Quay phim: Bernard Lutic
Dựng phim: Armand Psenny
Âm thanh: Michel Laurent
Âm nhạc (viết và chỉ huy dàn nhạc): Georges Delerue
Dựng âm thanh: Ludovic Schoendoerffer
Mỹ thuật: Raoul Albert & Lê Thanh Đức
Nhóm trợ lý đạo diễn 1: Frédéric Schoendoerffer, Jean-Charles Smith & Bạch Diệp
Sản xuất: Jacques Kirsner
Diễn viên: Donald Pleasence, Patrick Catalifo, Jean-François Balmer, Ludmila Mikael, François Négret, Maxime Leroux, Raoul Billerey, Thế Anh, Christopher Buchholz, Patrick Chauvel, Eric Do, Thu Hà, Igor Hossein, Luc Lavandier, Joseph Momo, Lê Văn Nghĩa, Sava Lolov, Nguyễn Khắc Long, Maité Nahyr, André Peron, Ludovic Schoendoerffer (tên xuất hiện theo thứ tự générique phim)
>>>>>>>>>>>>>>>>>
PIERRE SCHOENDOERFFER (1928—2012) là một nhà làm phim, nhà văn người Pháp xuất thân vùng Alsace. Lúc còn trẻ, Pierre mê truyện của Herman Melville, Joseph Conrad, Joseph Kessel và muốn sống một đời phiêu lưu, ông đã bắt đầu bằng việc trở thành thuỷ thủ trên những con tàu vào năm 18 tuổi. Năm 23 tuổi, ông gia nhập tình nguyện vào Tổ Điện ảnh Quân đội (Service Cinématographique des Armées) để tới Đông Dương. Trải nghiệm này đã có một vai trò lớn trong cuộc đời của ông. Pierre Schoendoerffer đã ghi lại cuộc chiến Đông Dương từ năm 1952 cho tới 1954. Ông nhảy dù xuống trận Điện Biên Phủ và đón sinh nhật tuổi 26 của mình trong thời gian của trận chiến lịch sử. Ông trở thành tù binh rồi sau đó được trả tự do sau Hiệp định Genève. Vào thời điểm có lệnh ngừng bắn, ông phá huỷ các thiết bị của mình như các đồng đội khác, nhưng có các cuộn phim đã tới tay nhà làm phim người Nga Roman Karmen và được Karmen sử dụng trong bộ phim Việt Nam (1955). Tiếp đó, ông đi vào miền Nam Việt Nam, trở thành phóng viên ảnh chiến tranh cho các tạp chí Pháp và Mỹ như Paris Match, France-Soir, Time, Life và chu du Đông Á. Năm 1955, ông gặp Joseph Kessel tại Hồng Kông và được cổ vũ trở thành nhà làm phim. Ông thực hiện bộ phim truyện đầu tay với kịch bản của Kessel, La Passe du Diable (Lạch Quỷ, 1956) với nhà sản xuất Goerges de Beauregard, một người có vai trò lớn với Làn Sóng Mới Pháp, và tiếp tục gắn bó trong sự nghiệp điện ảnh của mình. Ông thực hiện bộ phim 317è Section (Phân đội 317, 1964), chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của mình về cuộc chiến Đông Dương. Phim giành giải thưởng kịch bản tại LHP Cannes 1965, với quay phim Raoul Coutard, một người bạn lâu năm của ông từ thời lính và cũng là quay phim nhiều tác phẩm của Jean-Luc Godard và François Truffaut. Vẫn theo chủ đề đó, La Section Anderson (Phân đội Anderson) của Pierre Schoendoerffer nhận giải Oscar xuất sắc nhất cho phim tài liệu năm 1968. Năm 1992, ông thực hiện bộ phim qui mô nhất của mình tại Việt Nam, Điện Biên Phủ, hoàn thành bộ ba phim chiến tranh Đông Dương. Ông cũng là nhà văn của nhiều tiểu thuyết đoạt các giải thưởng lớn tại Pháp như L’Adieu Au Roi (Giải Interallié, 1969), Le Crabe-Tambour (Giải thưởng lớn cho tiểu thuyết của Viện hàn lâm Pháp, 1976). Pierre Schoendoerffer là một trong những người thành lập giải César và từng là phó chủ tịch của Viện Hàn Lâm Mỹ Thuật Pháp.
>>>>>>>>>>>>>>>>>
NHƯ TRĂNG TRONG ĐÊM gửi lời cảm ơn chân thành tới Studio Canal, Viện Pháp tại Việt Nam và các cá nhân liên quan đã hỗ trợ thực hiện buổi chiếu này.
NHƯ TRĂNG TRONG ĐÊM 2025 do Trung tâm TPD tổ chức với sự hỗ trợ và đồng hành từ Viện Phim Việt Nam; Viện Pháp tại Việt Nam và Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam; chương trình Connections Through Culture của Hội Đồng Anh trong dự án hợp tác với Star Nhà Ease; Quỹ Purin; & Complex 01.
https://linktr.ee/nttd
#nhutrangtrongdem2025
>>>>>>>>>>>>>>>>>
>>>>>>>>>>>>>>>>>
>>>>>>>>>>>>>>>>>
ĐIỆN BIÊN PHỦ
A FILM BY PIERRE SCHOENDOERFFER
19:00 — 22.04.2025
Ngọc Khánh Cinema — 523 Kim Mã, Hà Nội
Free entry
Advance registration:
https://tinyurl.com/dbp-nttd
Facebook event page:
https://www.facebook.com/events/1387234892470904/
Part of NHƯ TRĂNG TRONG ĐÊM 2025 (LIKE THE MOON IN A NIGHT SKY 2025)
(
www.facebook.com/events/641664061907797)
>>>>>>>>>>>>>>>>>
Produced nearly 40 years on since the historic battle that marked the end of the French colonial regime in Indochina, the film offers a ‘French perspective’ on Điện Biên Phủ. Following a first-person chronological narration from director Pierre Schoendoerffer, traversing between Hanoi and the battleground to the emotiveness of Georges Delerue’s score—the film sheds light on the people, plights and despair caught in a drastic struggle between life and death. To Schoendoerffer, a direct witness to the battle, this film was a mission he ought to fulfill. His own attitude toward the subject of war films.
The co-production between Vietnam and France in 1992 represents a filmic exchange at an unprecedented and thus far unsurpassed scale between the two countries. Its making involved both Vietnamese and French army who provided human and material resources; and a great number of Vietnamese film practitioners at the time in various positions. Điện Biên Phủ offers a stance independent of that presented by the other two French-Vietnamese cinematic co-productions coming out in the same year: Regis Wagnier’s Indochine and Jean Jacques Annaud’s The Lover, two other approaches to the same historical period albeit setting in the south of Vietnam.
*
Before all else, one must admit that it is impossible to assume the desired distance to write about the film Điện Biên Phủ. Only then can one find an adequate posture to face the deceased. It is not an easy task, either: to look straight and unfalteringly, to understand that, in the domain of so-called war film, if such categorization is in any way sufficient, the more gargantuan the production, the harder it fails to express the ruthlessness of the human fate, or to be more precise - of each fate, each dignity, each deceased soul, every single one of them, indiscriminately. It’s only apt that cinema must yield to its own limit.
War cinema is the cinema of death. 'What do we know about death?' asked a legionnaire in Điện Biên Phủ before returning to the battlefield. The moment marked a failure of cinema. Cinema failed, repeatedly, in the film, and in its potentials. 'You saw nothing in Hiroshima. Nothing', said the Japanese male protagonist who had lost his family to the World War II nuclear bombing in Alain Resnais’s Hiroshima Mon Amour (1959). He said it again and again to his French lover as she confided her memories of the city through its museum and hospital. What if to survive a pain — sustaining the potentiality to reconstruct the image of pain — is the negation of pain? Điện Biên Phủ and film, Điện Biên Phủ the film. Further and further one plunges into gunsmoke, fog, scorched landscape, into the rain, the soil, blood, and flesh. Wretchedness of the battlefield. Yet in actuality what can one grasp, touch, graze, if at all? Cinema can orchestrate a hellish spectacle, but it cannot be hell. Death can be reenacted on screen, but that shall never be death itself. And Schoendoerffer knew. That was the reality he had lived.
A former soldier coming of age in the French Army in Indochina with firsthand experience on the historic battleground, Pierre Schoendoerffer made Điện Biên Phủ as though hoping to restore the dignity of his fellow soldiers who were well aware of their predicament in the unjust war. Dignity of the defeated. The less significant their fates were to the grander scheme, the more torn they were. Điện Biên Phủ was a nightmare, Hanoi in the final days of French colonial regime, in the eyes of the filmmaker, was another. Terror, fury, shame, penitence, confronting devastation. How to trace a structure to Điện Biên Phủ from the French side? The structure of a gaping wound. On one hand, in a non-indulgent, well-grounded, historian-like attempt to recount and to make sense of what had happened, Pierre Schoendoerffer opted for a chronological framework. On the other, structure to Điện Biên Phủ the film was first and foremost that of a concerto. The temporality of the cinewar is a musical temporality, a solo part played on its own and at times in dialog with the whole orchestra. The violin was but reiterating lacerations by thousand hairstrings. Concerto de l’Adieu. Farewell, because it was impossible to do so. Making film, because it was impossible not to. A past one had to carry and redeem. A requiem.
One must heed the final minutes of the film — short, yet of tremendous intensity, which asserted Pierre Schoendoerffer’s stance apropos of soldiers on the other side of the frontline. After May 7th, 1954, after days in the rain and mud, a shot soared upward: the air became clear, in an unusual silence, a wide shot of green hills, Việt Minh soldiers coming into sight, green uniforms dissolving into the hills’ verdurous shades; thousands figures of modest stature and rudimentary gears gradually deluged and fused with the landscape, rushing down, advancing along in arms, sharing its rhythm of movements — a solemn revelation. This outcome was inevitable, destined; this was their country, answered the film.
Điện Biên Phủ. These words, almost by default, bring to mind the event, due to its historic position in collective memory. A film like Pierre Schoendoerffer’s Điện Biên Phủ, with his own stance, offers us a perspective while whispering quietly 'You saw nothing. Nothing.' Often at a loss as we are in face of the challenge to decide on a point of view amidst frantic currents of history—tottering on the thresholds of our limits, wound-torn, the essential question has always been: To see, but from which perspective? Which stance? With all its potentials, cinema is still the hopeless and impossible endeavor to mend past wounds; for Pierre Schoendoerffer, it could have been a choice for future’s sake, an aspect addressed in the closing voice-over by the filmmaker himself. Điện Biên Phủ (1992) embodies what Schoendoerffer often referred to as “a human adventure”, in this case, an adventure across the years.
— Trương Quế Chi
>>>>>>>>>>>>>>>>>
PROGRAMME
19:00 — Doors open
19:30 — Event starts
* Digitised and restored by Studio Canal, provided for screening by Institut français du Vietnam
* With subtitles in English & Vietnamese
* Hotline: 0363909790 / 0987159622
>>>>>>>>>>>>>>>>>
ĐIỆN BIÊN PHỦ
Feature film, 1992, 131’
Screenplay and directed by: Pierre Schoendoeffer
Cinematography: Bernard Lutic
Editing: Armand Psenny
Sound: Michel Laurent
Music composed & conducted by: Georges Delerue
Sound editing: Ludovic Schoendoerffer
Production design: Raoul Albert & Lê Thanh Đức
Assistant directors 1: Frédéric Schoendoerffer, Jean-Charles Smith & Bạch Diệp
Producer: Jacques Kirsner
Starring: Donald Pleasence, Patrick Catalifo, Jean-François Balmer, Ludmila Mikael, François Négret, Maxime Leroux, Raoul Billerey, Thế Anh, Christopher Buchholz, Patrick Chauvel, Eric Do, Thu Hà, Igor Hossein, Luc Lavandier, Joseph Momo, Lê Văn Nghĩa, Sava Lolov, Nguyễn Khắc Long, Maité Nahyr, André Peron, Ludovic Schoendoerffer (listed in accordance with the film’s credits)
>>>>>>>>>>>>>>>>>
PIERRE SCHOENDOERFFER (1928–2012) was a French filmmaker and writer from Alsace. As a young man, Pierre loved the stories of Herman Melville, Joseph Conrad, Joseph Kessel and wanted to live an adventurous life, which he began by becoming a sailor on ships at the age of 18. At the age of 23, he volunteered for the Service Cinématographique des Armées to go to Indochina. This experience played a major role in his life. Pierre Schoendoerffer documented the Indochina War from 1952 to 1954. He parachuted into the Battle of Dien Bien Phu and celebrated his 26th birthday during the historic battle. He became a prisoner of war and was later released after the Geneva Accords. At the time of the ceasefire, he destroyed his equipment like his comrades, but some of the film reached the Russian filmmaker Roman Karmen and was used by Karmen in his film Vietnam (1955). He then went to South Vietnam, becoming a war photographer for French and American magazines such as Paris Match, France-Soir, Time, Life and touring East Asia. In 1955, he met Joseph Kessel in Hong Kong and was encouraged to become a filmmaker. He made his first feature film with Kessel's script, La Passe du Diable (Devil's Creek, 1956) with producer Goerges de Beauregard, a major figure in the French New Wave, and continued his film career. He made 317è Section (Sect. 317, 1964), adapted from his novel of the same name about the Indochina war. The film won the screenplay award at the 1965 Cannes Film Festival, with cinematographer Raoul Coutard, a long-time friend of his from his military days and also the cinematographer of many works by Jean-Luc Godard and François Truffaut. Still on the same theme, La Section Anderson (Anderson's Section) by Pierre Schoendoerffer received the Oscar for Best Documentary in 1968. In 1992, he made his largest film in Vietnam, Dien Bien Phu, completing his Indochina War trilogy. He is also the author of many novels that have won major prizes in France such as L'Adieu Au Roi (Interallié Prize, 1969), Le Crabe-Tambour (Grand Prize for Fiction of the French Academy, 1976). Pierre Schoendoerffer was one of the founders of the César Awards and was vice-president of the French Academy of Fine Arts.
>>>>>>>>>>>>>>>>>
Special thanks to: Studio Canal, Institut français du Vietnam and other individuals for their valuable support.
NHƯ TRĂNG TRONG ĐÊM 2025 takes place between 17.04 — 27.04.2025, and is organized by TPD Film Centre, with valuable support from the Vietnam Film Institute; Institut français du Vietnam and the Embassy of France in Vietnam; British Council’s Connections Through Culture, via a grant in partnership with Star Nhà Ease; Purin Pictures; & Complex 01.
https://linktr.ee/nttd
#nhutrangtrongdem2025